Tác giả CN
| Vương, Toàn. |
Nhan đề
| Ba mối tương quan thể hiện trong chính sách ngoại ngữ của Việt Nam thời hội nhập = Three relations in Vietnam's foreign langagues in the era of integration /Vương Toàn. |
Thông tin xuất bản
| Hà Nội : Đại học Hà Nội, 2015 |
Mô tả vật lý
| tr. 91-100 |
Tùng thư
| Trường Đại học Hà Nội. |
Tóm tắt
| Foreign languages are necessary for all generations, especially the young, in the era of international and regional integration. Each language has its own position in the social life (most clearly reflected in education).Vietnam is a multi-ethnic nation with cultural diversity. The choice of a foreign language needs to be situated not only in the relation with other foreign languages and the national language, but each foreign language needs to be placed in the relation with the languages of other ethnic moritities in the country, especially with neighbor languages. These are the three correlations which should be given due attention in the suggestion of a language policy in general, and a foreign language policy in particular, so that Vietnam can befriend with all countries and this country can move towards the status of multi languages in cultural diversity. |
Tóm tắt
| Ngoại ngữ cần thiết cho mọi thế hệ, nhất là giới trẻ, trong thời kỳ hội nhập với khu vực và quốc tế. Mỗi ngôn ngữ có vị thế của nó khi cùng hành chức trong đời sống xã hội (thể hiện rõ nhất trong giáo dục). Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và đa dạng văn hóa. Việc chọn lựa một ngoại ngữ không chỉ cần đặt trong tương quan với các ngoại ngữ khác và ngôn ngữ quốc gia, mỗi ngoại ngữ còn được đặt trong quan hệ với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trong nước, đặc biệt là với các ngôn ngữ láng giềng. Đó là ba mối tương quan không thể không quan tâm thích đáng, khi đề xuất chính sách ngôn ngữ nói chung, chính sách ngoại ngữ nói riêng, để Việt Nam có thể làm bạn với tất cả các nước và đất nước này hướng tới trạng thái đa ngữ trong đa dạng văn hóa. |
Đề mục chủ đề
| Chính sách ngoại ngữ--Việt Nam |
Thuật ngữ không kiểm soát
| Chính sách ngoại ngữ |
Thuật ngữ không kiểm soát
| Thời kỳ hội nhập |
Thuật ngữ không kiểm soát
| Việt Nam |
Nguồn trích
| Tạp chí khoa học ngoại ngữ- Số 44/2015 |
|
000
| 00000nab a2200000 a 4500 |
---|
001 | 36835 |
---|
002 | 2 |
---|
004 | 47297 |
---|
005 | 202307061633 |
---|
008 | 230706s2015 vm vie |
---|
009 | 1 0 |
---|
022 | |a18592503 |
---|
035 | |a1456417602 |
---|
039 | |a20241130101749|bidtocn|c20230706163338|dhuongnt|y20160225103316|zsvtt |
---|
041 | 0 |avie. |
---|
044 | |avm |
---|
100 | 0 |aVương, Toàn. |
---|
245 | 10|aBa mối tương quan thể hiện trong chính sách ngoại ngữ của Việt Nam thời hội nhập = Three relations in Vietnam's foreign langagues in the era of integration /|cVương Toàn. |
---|
260 | |aHà Nội :|bĐại học Hà Nội,|c2015 |
---|
300 | |atr. 91-100 |
---|
490 | 0 |aTrường Đại học Hà Nội. |
---|
520 | |aForeign languages are necessary for all generations, especially the young, in the era of international and regional integration. Each language has its own position in the social life (most clearly reflected in education).Vietnam is a multi-ethnic nation with cultural diversity. The choice of a foreign language needs to be situated not only in the relation with other foreign languages and the national language, but each foreign language needs to be placed in the relation with the languages of other ethnic moritities in the country, especially with neighbor languages. These are the three correlations which should be given due attention in the suggestion of a language policy in general, and a foreign language policy in particular, so that Vietnam can befriend with all countries and this country can move towards the status of multi languages in cultural diversity. |
---|
520 | |aNgoại ngữ cần thiết cho mọi thế hệ, nhất là giới trẻ, trong thời kỳ hội nhập với khu vực và quốc tế. Mỗi ngôn ngữ có vị thế của nó khi cùng hành chức trong đời sống xã hội (thể hiện rõ nhất trong giáo dục). Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và đa dạng văn hóa. Việc chọn lựa một ngoại ngữ không chỉ cần đặt trong tương quan với các ngoại ngữ khác và ngôn ngữ quốc gia, mỗi ngoại ngữ còn được đặt trong quan hệ với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trong nước, đặc biệt là với các ngôn ngữ láng giềng. Đó là ba mối tương quan không thể không quan tâm thích đáng, khi đề xuất chính sách ngôn ngữ nói chung, chính sách ngoại ngữ nói riêng, để Việt Nam có thể làm bạn với tất cả các nước và đất nước này hướng tới trạng thái đa ngữ trong đa dạng văn hóa. |
---|
650 | 07|aChính sách ngoại ngữ|bViệt Nam |
---|
653 | 0 |aChính sách ngoại ngữ |
---|
653 | 0 |aThời kỳ hội nhập |
---|
653 | 0 |aViệt Nam |
---|
773 | |tTạp chí khoa học ngoại ngữ|gSố 44/2015 |
---|
890 | |a0|b0|c1|d2 |
---|
| |
|
|
|
|